1. Hàm VAR() và VARA()
Trả
về phương sai của một mẫu.
Phương sai, nói nôm na là "trung bình của bình
phương khoảng cách của mỗi điểm dữ
liệu tới trung bình".
Hay nói cách khác, phương sai là giá trị trung bình
của bình phương độ lệch.
Hàm tính phương sai dựa theo một mẫu sẽ
trả về kết quả là một con số ước
lượng, được tính theo công thức:
Trong đó, n là tổng số
các phần tử trong mẫu và X là trung bình cộng
của các phần tử trong mẫu.
Cú pháp: = VAR(number1,
number2, ...)
(number1, number2, ...) : Có thể có từ
1 đến 255 đối số (con số này trong Excel 2003
trở về trước chỉ là 30)
Lưu ý:
o VAR() giả
định rằng các đối số của nó là
mẫu của một tập hợp, do đó, nếu
dữ liệu là toàn thể tập hợp, cần dùng hàm
VARP() hoặc VARPA() để tính phương sai.
o Trong hàm VAR(), các giá
trị logic như TRUE, FALSE và các giá trị text
được bỏ qua; nếu muốn tính luôn các giá
trị này, bạn có thể sử dụng hàm VARA()
với cú pháp tương đương.
Ví dụ 1:
VAR(1, 2, 3, 4, 5) = 2.5
Thử tính lại công thức trên theo công thức:
Ta có AVERAGE(1, 2, 3, 4, 5) = (1+2+3+4+5)/5 =
3
Ví dụ 2:
1. Hàm VARP() và VARPA()
Trả
về phương sai dựa trên toàn thể một tập
hợp.
Hàm tính phương sai dựa trên toàn thể một tập
hợp sẽ trả về kết quả là một con
số ước lượng, được tính theo công
thức:
Trong đó, n là tổng số
các phần tử trong tập hợp và X là trung bình
cộng của các phần tử trong tập hợp. Chúng
ta thấy VAR() và VARP() chỉ khác nhau ở chỗ 1/(n-1)
và 1/n
Cú pháp: = VARP(number1,
number2, ...)
(number1, number2, ...) : Có thể có từ
1 đến 255 đối số (con số này trong Excel 2003
trở về trước chỉ là 30)
Lưu ý:
o VARP() giả
định rằng các đối số của nó là toàn
thể tập hợp, do đó, nếu dữ liệu
chỉ là một số mẫu của tập hợp, ta
dùng hàm VAR() hoặc VARA() để tính phương sai.
o Trong hàm VARP(), các giá
trị logic như TRUE, FALSE và các giá trị text
được bỏ qua; nếu muốn tính luôn các giá
trị này, bạn có thể sử dụng hàm VARPA()
với cú pháp tương đương.
Ví dụ 1:
VARP(1, 2, 3, 4, 5) = 2
Thử tính lại công thức trên theo công thức:
Ta có AVERAGE(1, 2, 3, 4, 5) = (1+2+3+4+5)/5 =
3
Ví dụ 2:
1. Hàm Thống kê
Hàm STDEV() và
STDEVA()
Ước
lượng độ lệch chuẩn dựa trên cơ
sở các mẫu thử của một tập hợp.
Độ lệch chuẩn, trong chứng khoán thường
được dùng để đo mức độ
rủi ro. Ví dụ, một cổ phiếu có tỷ
suất lợi nhuận trung bình là 10%, độ lệnh
chuẩn là 12%. Theo đó sẽ có 68,2% xác suất để
tỷ suất lợi nhuận biến thiên trong khoảng
-2% cho đến 22% và có 95,4% xác suất để tỷ
suất lợi nhuận nằm trong khoảng -14% cho
đến 34%. Như vậy khi độ lệch chuẩn
càng cao thì khả năng "lệch" của tỷ
suất lợi nhuận càng cao so với tỷ suất
lợi nhuận trung bình, tức là cổ phiếu có
mức độ rủi ro càng cao.[/B][/I].
Hàm tính độ lệch chuẩn dựa theo một
mẫu sẽ trả về kết quả là một con
số ước lượng, được tính theo công
thức:
Trong đó, n là tổng số
các phần tử trong mẫu và X là trung bình cộng
của các phần tử trong mẫu.
Cú pháp: = STDEV(number1,
number2, ...)
(number1, number2, ...) : Có thể có từ
1 đến 255 đối số (con số này trong Excel 2003
trở về trước chỉ là 30)
Lưu ý:
o STDEV() giả
định rằng các đối số của nó là
mẫu của một tập hợp, do đó, nếu
dữ liệu là toàn thể tập hợp, cần dùng hàm
STDEVP() hoặc STDEVPA() để tính độ lệch
chuẩn.
o Trong hàm STDEV(), các giá
trị logic như TRUE, FALSE và các giá trị text
được bỏ qua; nếu muốn tính luôn các giá
trị này, bạn có thể sử dụng hàm STDEVA()
với cú pháp tương đương.
Ví dụ:
1. Hàm Thống kê
Hàm STDEVP() và
STDEVPA()
Tính
độ lệch chuẩn dựa trên toàn thể một
tập hợp.
Hàm tính độ lệch chuẩn dựa trên toàn thể
một tập hợp được tính theo công thức:
Trong đó, n là tổng số
các phần tử trong tập hợp và X là trung bình
cộng của các phần tử trong tập hợp.
Cú pháp: = STDEVP(number1,
number2, ...)
(number1, number2, ...) : Có thể có từ
1 đến 255 đối số (con số này trong Excel 2003
trở về trước chỉ là 30)
Lưu ý:
o STDEVP() giả
định rằng các đối số của nó là toàn
thể tập hợp, do đó, nếu dữ liệu
chỉ là một số mẫu của tập hợp, ta
dùng hàm STDEV() hoặc STDEVA() để tính độ
lệch chuẩn.
o Trong hàm STDEVP(), các giá
trị logic như TRUE, FALSE và các giá trị text
được bỏ qua; nếu muốn tính luôn các giá
trị này, bạn có thể sử dụng hàm STDEVPA()
với cú pháp tương đương.
Ví dụ:
1. Tính toán với
sự biến thiên của các giá trị
Bài viết sau đây không có tham
vọng bày cho các bạn chơi chứng khoán, chỉ là
để miêu tả rõ hơn về "độ lệch
chuẩn" và cách sử dụng hàm STDEVP().
Cách tính giá đóng cửa điều chỉnh của các
cổ phiếu (Thạc sĩ Lâm Minh Chánh)
Trong chứng khoán, giá đóng
cửa điều chỉnh đóng vai trò hết sức
quan trọng trong việc phân tích tỷ suất lợi
nhuận của cổ phiếu. Nếu sử dụng giá
đóng cửa chưa điều chỉnh, tức là giá được
đăng trên bảng niêm yết giá tại sàn chứng
khoán, hoặc được cung cấp bởi các công ty
chứng khoán, chúng ta đã bỏ qua lợi nhuận mà nhà
đầu tư thu được từ cổ tức và
việc tách/thưởng cổ phiếu, vốn đóng vai
trò rất quan trọng. Khi đó, việc phân tích hiệu quả
đầu tư, cũng như việc so sánh giữa các
cổ phiếu với nhau, việc thành lập danh mục
đầu tư, hay ngay cả việc phân tích kỹ
thuật, sẽ mất tính chính xác. Trong bài này, Thạc
sĩ Lâm Minh Chánh sẽ trình bày tầm quan trọng và cách
tính giá đóng cửa điều chỉnh của các cổ
phiếu.
Cổ phiếu chúng ta lấy ra minh họa là một cổ
phiếu ABC nào đó, có bảng giá đóng cửa chưa
điều chỉnh trong 16 kỳ như bên dưới.
Dùng 16 kỳ giá đóng cửa chưa điều chỉnh
này, chúng ta tính ra kết quả tỷ suất lợi
nhuận, độ lệch chuẩn của cổ
phiếu như sau (xem Bảng 1):
Bảng 1: Giá đóng cửa chưa điều chỉnh
của cổ phiếu ABC
Việc tính toán như trên - vốn
chỉ dựa vào giá đóng cửa chưa điều
chỉnh - thật sự không chính xác và không thể hiện
được tỷ suất lợi nhuận và độ
lệch chuẩn, cũng như xu hướng giá của
cổ phiếu ABC vì đã bỏ qua lợi nhuận mà nhà
đầu tư nhận được việc chia cổ
tức và tách thưởng cổ phiếu.
Cổ phiếu ABC có lịch chia cổ tức và cổ
phiếu thưởng như sau: cuối kỳ 3, cổ
tức tiền mặt 5.000; cuối đợt 7,
thưởng bằng cổ phiếu: tách 1 cổ phiếu
thành 2, cuối đợt 13, cổ tức tiền mặt
4.000; cuối đợt 14, thưởng bằng cổ phiếu;
2 cổ phiếu tặng 1 cổ phiếu (tức 2 thành 3).
Dựa vào những dữ liệu đó, chúng ta sẽ xác
định giá đóng cửa điều chỉnh của
ABC theo 2 bước như sau:
Bước 1: Tính tỷ suất lợi nhuận thật
sự của cổ phiếu ABC theo từng kỳ
Thể hiện tất cả những hệ số này vào
cột G (hệ số tách/thưởng cổ phiếu),
cột J (cổ tức) và sử dụng những công
thức thể hiện bằng chữ màu xanh trong các tiêu
đề, chúng ta sẽ tìm ra được tỷ
suất lợi nhuận chính xác theo từng kỳ, ở
cột M. Từ đó sẽ tính được tỷ
suất lợi nhuận trung bình và độ lệch
chuẩn trong các ô M22 và M23 theo như bảng sau (xem bảng
2):
Bảng 2: Tính tỷ suất lợi nhuận thật
của cổ phiếu ABC
Rõ ràng tỷ lệ lãi suất thực
tính theo giá điều chỉnh đóng cửa (13,10%) cao
hơn nhiều so với tỷ lệ lãi suất chỉ
tính theo giá đóng cửa chưa điều chỉnh
(2,46%). Độ lệch chuẩn đo mức độ
rủi ro tính theo giá điều chỉnh (8,96%) cũng
thấp hơn so với độ lệch chuẩn khi tính
theo giá đóng cửa chưa điều chỉnh (16,78%).
Như vậy chúng ta đã tính được tỷ lệ
lãi suất thật sự từng kỳ của cổ
phiếu ABC. Việc còn lại là chúng ta phải thể
hiện giá đóng cửa điều chỉnh như
thế nào? Chúng ta không thể dùng giá tại cột L
để biểu diễn giá của cổ phiếu ABC.
Tại kỳ 16, giá cổ phiếu này là 19.000 chứ
đâu phải 57.000.
Chúng ta sẽ tính ra giá đóng cửa điều chỉnh
của cổ phiếu ABC trong vòng 16 kỳ theo cách tính
ngược như sau:
Bước 2: Tính giá đóng cửa điều chỉnh
của cổ phiếu ABC
Trước hết, cho giá đóng cửa điều
chỉnh (ĐCĐC) cuối kỳ 16 bằng với giá
đóng cửa chưa điều chỉnh cuối kỳ
16. Trên Excel, cho R18=P18. Chúng ta biết tỷ suất lợi
nhuận kỳ 16 được xác định bằng
công thức:
Tỷ suất lợi nhuận
kỳ 16 = (Giá ĐCĐC kỳ 16 – Giá ĐCĐC kỳ
15)/Giá ĐCĐC kỳ 15*100%
Từ công thức đó ta suy ra:
Giá đóng cửa kỳ 15 = Giá
ĐCĐC kỳ 16 *(1+tỷ suất lợi nhuận
kỳ 16)
Áp dụng công thức này, chúng ta
sẽ tính được giá đóng cửa điều
chỉnh của các kỳ trước đó theo bảng sau
(xem bảng 3):
Bảng 3: Giá đóng cửa điều chỉnh của
cổ phiếu ABC
Như vậy chúng ta đã có giá
đóng cửa điều chỉnh trong 16 kỳ.
Minh hoạ dưới nay sẽ giúp chúng ta một lần
nữa nhận rõ sự khác nhau của giá đóng cửa
điều chỉnh và chưa điều chỉnh:
Giả sử chúng ta có 1.000.000 và đầu tư vào cổ
phiếu ABC trong đủ 16 kỳ. Với giá đóng
cửa chưa điều chỉnh, chúng ta chỉ nhận
được 1.117.647 sau 16 kỳ, trong khi đó với giá
đóng cửa điều chỉnh, số tiền nhận
được là 6.035.800 và đây mới là con số chính
xác thu được từ khoản đầu tư này
(xem bảng 4).
Bảng 4: Kết quả đầu tư theo 2 cách tính
giá
Trước khi kết thúc, xin
lưu ý các bạn ba điểm: Thứ nhất, có một
vài phương cách tính giá điều chỉnh khác, tuy
vậy chúng cho kết quả tương tự. Thứ
hai, giá đóng cửa điều chỉnh của một
cổ phiếu sẽ thay đổi khi có sự kiện
chia cổ tức hay tách/thưởng cổ phiếu. Tuy
vậy, tỷ suất lãi suất của từng kỳ là
không thay đổi và giá điều chỉnh cuối
kỳ bao giờ cũng bằng với giá đóng cửa
cuối kỳ chưa điều chỉnh. Thứ ba, trong
khi chờ đợi một tổ chức tại Việt
Nam cung cấp giá này, từng cá nhân chúng ta có thể tính giá
đóng cửa điều chỉnh để sử dụng.
Điều quan trọng cần phải để ý là chúng
ta phải chọn điểm xuất phát. Tốt nhất
là từ ngày đầu giao dịch của cổ phiếu.
Nếu không có đủ số liệu trong quá khứ, thì
có thể sử dụng một ngày nào đó gần hơn,
chẳng hạn 2/1/2007. Điều cần ghi nhớ là nên
chọn một điểm xuất phát giống nhau cho các
cổ phiếu mà chúng ta định phân tích hay thành lập
danh mục đầu tư...
1. Hàm Thống kê
Hàm FREQUENCY()
Dùng để tính xem có bao nhiêu giá trị thường xuyên
xuất hiện bên trong một dãy giá trị, và trả
về một mảng đứng các số. Trong giáo
dục, FREQUENCY() thường được dùng
để đếm số điểm thi nằm trong
một dãy điểm nào đó, hoặc dùng để
đếm (phân loại) học lực của học sinh
dựa vào điểm trung bình, v.v...
FREQUENCY() là một hàm cho ra kết quả là một
mảng, do đó nó phải được nhập ở
dạng công thức mảng.
Cú pháp: = FREQUENCY(data_array,
bins_array)
data_array : Mảng hay tham chiếu
của một tập hợp các giá trị dùng để
đếm số lần xuất hiện. Nếu data_array
không có giá trị, FREQUENCY() trả về một mảng
các trị zero (0).
bins_array : Mảng hay tham
chiếu chứa các khoảng giá trị làm mẫu, và các
trị trong data_array sẽ được nhóm lại
theo các trị mẫu này. Nếu bins_array không có giá
trị, FREQUENCY() sẽ trả về số phần tử
trong data_array.
Lưu ý:
o FREQUENCY() phải
được nhập dưới dạng công thức
mảng sau khi chúng ta đã chọn một dãy ô kề nhau
để phân bổ sự xuất hiện của các phần
tử trong mảng.
o Số phần tử
trong data_array phải nhiều hơn số phần
tử trong bins_array 1 phần tử. Phần tử dôi
ra này chứa số lượng các giá trị lớn
hơn khoảng lớn nhất. Ví dụ, khi đếm 3
khoảng giá trị đã nhập trong 3 ô, phải chắc
chắn rằng FREQUENCY() được nhập vào 4 ô; ô
thứ 4 này sẽ trả về số lượng các giá
trị trong data_array khi các gía trị này lớn hơn
giá trị trong khoảng thứ 3. Để dễ hiểu
hơn, các bạn xem ở các ví dụ sau.
o FREQUENCY() sẽ
bỏ qua các ô trống hoặc các chuỗi text.
Ví dụ:
1. Hàm Phân phối xác
suất
Hàm NORMDIST()
NORMDIST (= Normal Distribution) trả về phân
phối chuẩn. Hàm này có ứng dụng rất rộng
trong thống kê, bao gồm cả việc kiểm tra
giả thuyết.
Cú pháp: = NORMDIST(x,
mean, standard_dev, cumulative)
x : Giá trị
để tính phân phối
mean : Giá trị trung bình
cộng của phân phối
standard_dev : Độ lệch
chuẩn của phân phối
cumulative : Giá trị logic xác
định dạng hàm.
o Nếu cumulative
là TRUE, NORMDIST() trả về hàm tính phân phối tích lũy
của phân phối chuẩn:
o Nếu cumulative
là FALSE, NORMDIST() trả về hàm mật độ xác
suất của phân phối chuẩn:
Lưu ý:
o Nếu mean và standard_dev
không phải là số, NORMDIST() sẽ báo lỗi #VALUE!
o Nếu standard_dev nhỏ
hơn hoặc bằng 0, NORMDIST() sẽ báo lỗi #NUM!
o Nếu mean = 0 và
standard_dev = 1, cumulative = TRUE, NORMDIST() sẽ
trả về phân phối tích lũy chuẩn tắc
(standard normal distribution) - Xem hàm NORMSDIST()
Ví dụ: